Ong Dú loài ong có tiềm năng kinh tế ở Tây Bắc Việt Nam

  • Biên tập bởi
  • foodmap ngày 06/03/2024
  • 2698

Các nhà khoa học từ Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam đã thành công trong việc phát hiện loài ong dú có tiềm năng lớn phục vụ phát triển kinh tế – xã hội ở Tây Bắc Việt Nam thông qua đề tài “Khám phá các loài ong mật ít dẫn liệu (Hymenoptera apoidea) và đặc điểm sinh học của chúng”.

Vì sao loài ong được nhiều nhà khoa học chú ý?

Với vai trò quan trọng trong quá trình thụ phấn, sự quan tâm đối với các loài ong mật từ các nhà khoa học trên thế giới là rất lớn. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có hơn 20.000 loài ong thuộc 07 họ đã được phát hiện và phân bố trên toàn thế giới. Bên cạnh sự đa dạng của các loài, vẫn tồn tại những giống ong có số lượng ít và thông tin về đặc điểm sinh học của chúng là hạn chế nhất định, trong đó có cả loài ong dú.

ong du loai ong co tiem nang kinh te cao

Trong Việt Nam, các nhà khoa học đã tiến hành tìm kiếm và phát hiện được 10 loài ong dú thuộc 04 giống, một nhóm ong xã hội nhỏ nhất sản xuất mật, thuộc họ Apidae. Cho đến thời điểm hiện tại, sản phẩm như mật ong, phấn hoa và keo ong được tạo ra từ nhóm ong này có nhiều ứng dụng trong lĩnh vực y học. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào về cấu trúc tổ, hình thái của các giai đoạn phát triển phục vụ quá trình nuôi dưỡng và phát triển của bày ong này. Ong dú dần trở thành loài ong được nhiều quốc gia quan tâm từ các nước Đông Nam Á như: Malaysia, Indonesia,…và dần lan rộng các quốc gia khác trong khu vực.

Giá trị của những nghiên cứu về loài ong mang lại

Nghiên cứu về các loài ong mật ở Việt Nam đã bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, Viện Bảo vệ Thực vật đã tiến hành công tác này, ghi nhận tổng cộng 31 loài, trong đó có 17 dạng loài thuộc 04 họ Apidae, Colletidae, Halictidae và Megachilidae. Tuy nhiên, các loài này đều thuộc các giống khá phổ biến như Apis, Bombus, Megachile hay Xylocopa. Các nghiên cứu gần đây hơn về từng giống ít dẫn liệu đã được thực hiện, nhưng số lượng mẫu vật thu thập ở Tây Bắc rất ít. Với địa hình và khí hậu đặc trưng, Tây Bắc được xem là khu vực có tiềm năng để khám phá các loài ít dẫn liệu cũng như phát mới.

Trong nghiên cứu này, lần đầu tiên ThS Trần Thị Ngát và các đồng nghiệp từ Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã công bố danh sách thành phần của các loài ong mật hiếm ít dẫn liệu ở một số tỉnh Tây Bắc, cùng với thông tin về các đặc điểm sinh học như cấu trúc tổ, các giai đoạn phát triển và hoạt động bay của loài ong dú có tiềm năng kinh tế.

Trong khu vực Tây Bắc, tổng cộng 18 loài ong đã được ghi nhận thuộc 04 họ Apidae, Halictidae, Megachilidae và Melittidae. Họ Apidae bao gồm 09 loài thuộc 06 giống, họ Megachilidae bao gồm 07 loài thuộc 05 giống, còn họ Halictidae và họ Melittidae đều ghi nhận 01 loài thuộc 01 giống. Nghiên cứu đã phát hiện 01 phân tộc mới (Noteriadina), 01 giống mới (Ebaiotrigona), 02 loài mới (Bathanthidium paco và Noteriades hangkia), và ghi nhận 03 loài mới cho (Thrinchostoma sladeni, Anthidiellum carinatum và Chelostoma aureocinctum) ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng đã xác định có tổng cộng 93 loài phổ biến ở Tây Bắc như Lepidotrigona flavibasis, Tetragonula laeviceps và Euapsis polyensis.

Trong đề tài này, 04 loài ong dú có tiềm năng trong việc khai thác các sản phẩm như mật ong, phấn hoa và keo ong đã được xác định. Lepidotrigona flavibasis và Tetragonula gressitti được coi là có tiềm năng hơn so với Ebaiotrigona carpenteri trong việc thu hoạch mật ong và phấn hoa. Nguyên nhân là do kích thước của túi phấn hoa và mật ở loài E. Carpenteri rất nhỏ, dẫn đến lượng mật và phấn rất ít. Lepidotrigona flavibasis thích nghi tốt hơn trong thùng nuôi so với Tetragonula gressitti, đồng thời mật của nó có chất lượng tốt hơn, được đánh giá cao hơn so với Apis cerana và Apis dorsata trên toàn thế giới. Do đó, Lepidotrigona flavibasis là một trong những loài có tiềm năng trong việc nuôi thương mại lấy mật và phấn hoa ở khu vực Tây Bắc. Đề tài cũng cung cấp dẫn liệu về cấu trúc tổ và các giai đoạn phát triển của loài này, làm cơ sở cho việc thuần dưỡng và phát triển đàn ong dú.

Các kết quả nghiên cứu khoa học và sản phẩm của đề tài đều có đóng góp quan trọng đối với kiến thức về đa dạng sinh học ở vùng Tây Bắc Việt Nam và việc phát triển các loài ong dú có tiềm năng kinh tế. Ngoài ra, kết quả này còn có thể được sử dụng như tài liệu tham khảo và giảng dạy trong lĩnh vực đa dạng các loài côn trùng. Đề tài đã giúp nâng cao năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, đồng thời cũng hỗ trợ việc phát triển nghiên cứu về côn trùng và ong mật của các nhà khoa học trẻ trên toàn quốc.

Nguồn: vjst- Chu Ngân – Phong Vũ

TOP