Điện Biên: Hình thức "Lúa đơn giống và mở rộng cấy lúa bằng máy"

  • Biên tập bởi
  • foodmap ngày 13/12/2023
  • 4369

Theo Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh Điện Biên, việc tích hợp tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong quá trình sản xuất lúa đã mang lại những kết quả tích cực, như sự ổn định trong năng suất lúa, đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng cường lợi nhuận. Mô hình này đã chứng minh và thể hiện sự hiệu quả của chương trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất, hướng đến việc nâng cao giá trị sản xuất, tối ưu hóa hiệu suất kinh tế, giảm thiểu chi phí sản xuất, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của các địa bàn và được nông dân chấp nhận. Đây là một mô hình linh hoạt và có khả năng mở rộng trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.

Mô hình nhân rộng lúa cấy bằng máy móc

Áp dụng kỹ thuật cấy bằng máy không chỉ mang lại nhiều lợi ích mà còn giải quyết một số thách thức quan trọng trong quá trình sản xuất lúa. Việc giảm lượng giống cần sử dụng, điều chỉnh mật độ chuẩn thoáng theo hàng và hạn chế tranh chấp dinh dưỡng và ánh sáng đã tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình chăm sóc cây lúa. Sử dụng dụng cụ làm cỏ sục bùn để tạo thông thoáng trong đất không chỉ giảm tình trạng nghẹt rễ mà còn giúp lúa đẻ nhánh tập trung, cứng cây, và tỷ lệ dảnh hữu hiệu từ 8 – 10 dảnh/khóm.
Tại các địa bàn vùng ngoài áp lực về lúa, mô hình này đã thể hiện sự giảm áp lực so với vùng lòng chảo thuộc huyện Điện Biên và thành phố. Nông dân được hỗ trợ để nắm bắt thực trạng của lúa và hiểu rõ tầm quan trọng của việc xử lý lúa trong quá trình sản xuất. Sự thay thế thuốc trừ cỏ bằng dụng cụ làm cỏ sục bùn đã mang lại hiệu quả tích cực. Áp dụng kỹ thuật cấy, việc kéo dài thời gian làm đất không chỉ giảm áp lực mùa vụ mà còn giảm tình trạng lúa ngộ độc đầu vụ. Ruộng giữ nước lâu hơn so với phương pháp gieo vãi, tạo điều kiện cho hạt cỏ dại và lúa mọc khó hơn. Cây lúa và cỏ dại nảy mầm muộn, dễ phân biệt, và tỷ lệ lúa lẫn thấp hơn 80 – 90% so với ruộng ngoài mô hình. Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình sản xuất lúa, mà mô hình đã chứng minh được tính khả thi và hiệu quả.
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) ngay từ đầu vụ, bao gồm xử lý giống, làm đất, cấy mạ non, và cấy thưa, đã mang lại nhiều ưu điểm đáng chú ý. Các đối tượng dịch hại chính như tập đoàn rầy, sâu cuốn lá nhỏ, bệnh bạc lá, và bệnh khô vằn xuất hiện muộn hơn so với phương pháp gieo vãi, và mức độ gây hại của chúng thấp hơn. Nông dân, tuân thủ nguyên tắc “4 đúng” trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đã giảm số lượng sinh vật gây hại phát sinh. Sự tuân thủ này không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch hại mà còn duy trì cân bằng sinh học trong môi trường nông nghiệp. Đồng thời, số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật giảm từ 1,5 – 3 lần, giúp hạn chế ảnh hưởng của các chất hoá học đối với môi trường và giảm chi phí sản xuất.

lua-dien-bien

Mô hình lúa đơn giống

Mô hình cánh đồng 1 giống, áp dụng đồng loạt các biện pháp kỹ thuật từ giai đoạn đầu vụ, như cấy tập trung, bón phân, điều tiết nước, và phun thuốc bảo vệ thực vật, đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể. Sự áp dụng máy cấy trên mô hình này đã giảm tỷ lệ lúa lẫn và cỏ dại 80 – 90% so với các phương pháp truyền thống. Lúa không chỉ sinh trưởng phát triển đồng đều mà còn có tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao, và trổ bông tập trung trên cùng cánh đồng.
Nông dân đã được hướng dẫn về các biện pháp và lưu ý cần thiết trong quá trình thu hoạch và sơ chế, nhằm đảm bảo không lẫn tạp và đáp ứng đúng yêu cầu của đơn vị thu mua.
Việc áp dụng máy cấy trên mô hình 1 giống không chỉ kiểm soát tốt sinh vật gây hại mà còn làm cho chúng xuất hiện muộn hơn và gây hại ít hơn so với các phương pháp khác. Sự tập trung của sinh vật gây hại theo lứa đã giúp triển khai các biện pháp phòng trừ đồng loạt, nâng cao hiệu quả phòng trừ.
Ngoài ra, việc kiểm soát hiệu quả việc sử dụng thuốc trừ sâu từ giai đoạn đầu vụ và phun trừ khi đạt ngưỡng nhất định đã giảm thiểu ảnh hưởng của sâu bệnh đối với năng suất cuối vụ. Đặc biệt, đối với tập đoàn rầy, mật độ của chúng giai đoạn giữa vụ đã được kiểm soát cao hơn so với ruộng gieo vãi, mà không gặp hiện tượng cháy chòm và ổ rầy như trên ruộng sử dụng phương pháp truyền thống. Đây là một bước tiến quan trọng trong quản lý dịch hại và tăng cường hiệu suất trong sản xuất nông nghiệp.

Nguồn: Mard.gov.vn

 

TOP